Ung thư buồng trứng là gì?

Ung thư buồng trứng là sự phát triển không kiểm soát của các tế bào trong buồng trứng ở phụ nữ. Buồng trứng là các tuyến sinh sản nằm ở hai bên tử cung ở vùng bụng dưới.

Buồng trứng có hai chức năng chính:

  • Sản xuất các hormone estrogen và progesterone có tác dụng làm phát triển các đặc điểm sinh dục thứ cấp nữ (ví dụ: sự phát triển của vú, lông mu) và điều hoà chu kỳ sinh sản
  • Phát triển và phóng thích trứng vào ống dẫn trứng mỗi tháng một lần trong thời kỳ sinh sản

Ung thư buồng trứng là nguyên nhân phổ biến thứ 5 gây tử vong do ung thư ở phụ nữ. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng trong thời gian sống là khoảng 1 trên 78. ACS ước tính khoảng 22.500 trường hợp mới được chẩn đoán mỗi năm ở Hoa Kỳ và gần 14.000 phụ nữ chết vì bệnh này. Ung thư buồng trứng di căn là nguyên nhân tử vong phổ biến hơn ung thư cổ tử cung và ung thư tử cung và hai loại ung thư nầy dễ phát hiện hơn. Ung thư buồng trứng khó phát hiện hơn nên thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn hơn, khi đó sẽ khó điều trị hơn.

Các khối u buồng trứng có thể lành tính hoặc ác tính (ung thư) . Thông thường, không thể xác định một khối u có phải là ung thư hay không cho đến khi buồng trứng được sinh thiết hoặc cắt bỏ hoặc ung thư đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể. Các khối u buồng trứng chia thành ba loại:

  • Các khối u biểu mô (phần lớn các khối u buồng trứng) - bắt đầu trong các tế bào biểu mô bao phủ bên ngoài buồng trứng
  • Các khối u tế bào mầm (ít hơn ,2% tổng số các khối u buồng trứng) - xảy ra trong các tế bào sản xuất trứng và thường thấy ở phụ nữ trẻ
  • Các khối u mô đệm (khoảng 1% tổng số các khối u buồng trứng) - bắt nguồn từ các mô liên kết của buồng trứng sản xuất ra estrogen và progesterone

Trong khi các khối u lành tính không di căn , các khối u buồng trứng ung thư (ác tính) sẽ di căn nếu không được chẩn đoán và điều trị - đầu tiên là khắp buồng trứng, sau đó đến tử cung, bàng quang, trực tràng và niêm mạc ổ bụng. Cuối cùng, các tế bào ung thư sẽ đến các hạch bạch huyết và lan ra khắp cơ thể.

Yếu tố nguy cơ

Yếu tố nguy cơ chính của ung thư buồng trứng là tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư buồng trứng từ phía mẹ hoặc bên cha . Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, khoảng 5% đến 10% trường hợp ung thư buồng trứng phát triển từ nguy cơ di truyền (di truyền). Một số ví dụ bao gồm:

   Hội chứng ung thư vú và ung thư buồng trứng di truyền — các biến thể di truyền gây bệnh di truyền trong gen BRCA1 và BRCA2 có liên quan đến việc tăng đáng kể nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng suốt đời. Đối với phụ nữ có các biến thể gây bệnh BRCA1, nguy cơ được ước tính là 35-70% và đối với phụ nữ có các biến thể gây bệnh BRCA2 là 10-30%. Phụ nữ không có các biến thể gây bệnh này có nguy cơ suốt đời khoảng 2%.

   Ung thư ruột kết không nhiễm trùng di truyền (hội chứng Lynch) —các biến thể gây bệnh di truyền ở một số gen (MLH1, MLH3, MSH2, MSH6, TGFBR2, PMS1, PMS2) chủ yếu liên quan đến tăng nguy cơ ung thư ruột kết, nhưng phụ nữ cũng có thể có nguy cơ cao hơn ung thư buồng trứng (nguy cơ suốt đời khoảng 10%).

Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm:

  • Tuổi - khoảng một nửa số ca ung thư buồng trứng được tìm thấy ở phụ nữ 63 tuổi trở lên. Hầu hết ung thư buồng trứng phát triển sau khi mãn kinh.
  • Chủng tộc — ung thư buồng trứng phổ biến hơn ở phụ nữ da trắng hơn phụ nữ Mỹ gốc Phi.
  • Tiền sử cá nhân có bệnh ung thư vú
  • Không có con hoặc có con sau 35 tuổi
  • Thừa cân hoặc béo phì
  • Dùng liệu pháp hormone thay thế
  • Điều trị sinh sản

 

 

Các yếu tố có thể liên quan đến việc giảm nguy cơ bao gồm uống thuốc tránh thai, sinh con khi dưới 26 tuổi và cho con bú.

Dấu hiệu và triệu chứng

Các lý do chính mà ung thư buồng trứng không được phát hiện là không có xét nghiệm sàng lọc đáng tin cậy và các triệu chứng thường không đáng chú ý và khá không đặc hiệu, có nghĩa là có nhiều tình trạng không phải ung thư có thể gây ra các triệu chứng tương tự và thường khó phân biệt. Một số ví dụ về các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm:

  • Khó chịu ở bụng, áp lực, đầy hơi hoặc sưng tấy
  • Đi tiểu mạnh, thường xuyên và / hoặc thay đổi thói quen đi tiêu
  • Đau hoặc khó chịu vùng chậu
  • Chán ăn, khó tiêu, đầy hơi hoặc buồn nôn

Điều quan trọng là phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên và hỏi ý kiến bác sĩ nếu các dấu hiệu và triệu chứng phát triển.

Xét nghiệm

Hiện tại, không có xét nghiệm tầm soát đặc hiệu cho ung thư buồng trứng. Lực lượng Đặc nhiệm Dịch vụ Phòng ngừa Hoa Kỳ (USPSTF) khuyến cáo phụ nữ không nên sàng lọc ung thư buồng trứng. Khuyến nghị này áp dụng cho phụ nữ không có triệu chứng (dân số chung) nhưng không áp dụng cho phụ nữ có nguy cơ cao phát triển ung thư buồng trứng, chẳng hạn như những người có biến thể di truyền gây bệnh đã biết (ví dụ: biến thể BRCA1 / 2). Những phụ nữ có nguy cơ gia tăng có thể được theo dõi với sự kết hợp của siêu âm qua ngã âm đạo và xét nghiệm máu để tìm chất chỉ điểm khối u CA-125.

Yêu cầu có một phương pháp đáng tin cậy để phát hiện sớm ung thư buồng trứng ở phụ nữ không có triệu chứng ,đang tiếp tục thúc đẩy nghiên cứu . Các xét nghiệm phân tử (gen) và các phương pháp tiếp cận nhiều dấu ấn đang được khám phá để cải thiện việc phát hiện sớm các bệnh ung thư buồng trứng. Trong khi chờ đợi, thường xuyên khám sức khỏe tổng quát, khám vùng chậu và nhận biết về tiền sử gia đình và các triệu chứng là rất quan trọng.

Xét nghiệm tăng nguy cơ

 

Những phụ nữ có tiền sử gia đình hoặc sắc tộc liên quan đến ung thư buồng trứng có thể được tư vấn di truyền và thực hiện xét nghiệm di truyền. Một ví dụ phổ biến là xét nghiệm BRCA1 và BRCA2. Các xét nghiệm này phát hiện các biến thể di truyền gây bệnh được biết là làm tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng. Chỉ khoảng 0,2% dân số Hoa Kỳ mang biến thể BRCA1 hoặc BRCA2 gây bệnh. Do đó, xét nghiệm di truyền không được khuyến khích cho dân số chung.

Chẩn đoán

Nếu phát hiện thấy bất thường, chẳng hạn như khối u được phát hiện trong quá trình siêu âm và nghi ngờ ung thư buồng trứng, sinh thiết thường được chỉ định để xác định chẩn đoán. Một mẫu khối u được cắt bỏ trong quá trình phẫu thuật và gửi đến phòng thí nghiệm. Nhà nghiên cứu bệnh học sử dụng kính hiển vi để kiểm tra mẫu và xác định xem có ung thư hay không.

Theo dõi

  • CA-125 (Kháng nguyên ung thư 125) - là một chất chỉ điểm khối u chủ yếu được sử dụng để theo dõi liệu pháp trong quá trình điều trị ung thư buồng trứng. CA-125 cũng được sử dụng để phát hiện ung thư có tái phát hay không sau khi điều trị xong. Một loạt các lần xét nghiệm CA-125 cho thấy mức độ tăng hoặc giảm thường hữu ích hơn kết quả một lần duy nhất.
  • HE4 (Human epididymis protein 4 - Protein 4 mào tinh người) - một chất chỉ điểm khối u tương đối mới cho thấy nhiều hứa hẹn. HE4 có thể được sử dụng cùng với CA-125 để theo dõi những phụ nữ đã được điều trị ung thư buồng trứng biểu mô. Để HE4 hữu ích như một chất chỉ điểm khối u, HE4 phải tăng trước khi điều trị.

Các xét nghiệm khác có thể được chỉ định để giúp theo dõi các loại khối u buồng trứng khác nhau. Các xét nghiệm có thể giúp xác định xem việc điều trị (ví dụ: phẫu thuật, hóa trị) có thành công hay không và liệu ung thư có tái phát hay không. Một số ví dụ bao gồm:

  • Các khối u biểu mô

+ Carcinoembryonic antigen (CEA) - ít đặc hiệu và nhạy hơn CA-125; không được khuyến khích sử dụng thường xuyên

  • Khối u tế bào mầm

+ Alpha-fetoprotein (AFP)

       + Human Chorionic Gonadotropin (hCG)

       + Lactate dehydrogenase (LD)

  • Khối u mô đệm

+ Inhibin

     + Estrogen

       + Testosterone

Thử nghiệm ngoài phòng thí nghiệm

Các xét nghiệm hình ảnh có thể được sử dụng để đánh giá buồng trứng bao gồm:

  • Siêu âm (vùng chậu và / hoặc qua âm đạo) - sử dụng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh của tử cung và buồng trứng; nó có thể giúp xác định xem sự phát triển buồng trứng có khả năng là ung thư hay u nang chứa đầy dịch hay không.
  • Chụp CT (chụp cắt lớp vi tính) hoặc chụp X-quang có thể được sử dụng để xem liệu ung thư đã lan rộng chưa.
  • MRI (chụp cộng hưởng từ) có thể được sử dụng để xem liệu ung thư đã lan rộng chưa.

Giai đoạn và Điều trị

Nếu ung thư được phát hiện, phẫu thuật để loại bỏ các mô ung thư được thực hiện (cắt buồng trứng). Các mô lân cận có thể được loại bỏ để xác định giai đoạn của bệnh, phổ biến nhất là các ống dẫn trứng (cắt bỏ ống dẫn trứng). Giai đoạn ung thư buồng trứng rất phức tạp nhưng nhìn chung, một trong bốn giai đoạn của ung thư được xác định, tùy thuộc vào sự xâm lấn của khối u, giai đoạn :

  • Giai đoạn 1 - giai đoạn này bao gồm ung thư hiện diện ở một hoặc cả hai buồng trứng hoặc ống dẫn trứng cũng như ung thư đã lan ra bề mặt bên ngoài của các cơ quan này và / hoặc trong dịch vùng chậu hoặc ổ bụng. Tuy nhiên, ung thư chưa lan đến các cơ quan lân cận hoặc các hạch bạch huyết hoặc các vị trí xa (khoảng 20% ​​ung thư buồng trứng được chẩn đoán có tiên lượng tốt ).
  • Giai đoạn 2 - giai đoạn này bao gồm ung thư đã lan đến các cơ quan vùng chậu lân cận như tử cung, bàng quang, trực tràng và / hoặc đại tràng dưới nhưng không đến các hạch bạch huyết lân cận hoặc các cơ quan xa.
  • Giai đoạn 3 - giai đoạn này bao gồm ung thư đã lan đến niêm mạc bụng hoặc các hạch bạch huyết xung quanh.
  • Giai đoạn 4 - ung thư đã di căn đến các cơ quan khác ngoài ổ bụng.

Điều trị thường phụ thuộc vào loại và giai đoạn của ung thư. Phương pháp điều trị chính là phẫu thuật và cũng có thể bao gồm hóa trị, liệu pháp hormone, liệu pháp nhắm mục tiêu và / hoặc đôi khi là xạ trị.

Điều trị ung thư buồng trứng không ngừng phát triển. Các loại thuốc mới, liệu pháp miễn dịch và cấy ghép tủy xương đang được nghiên cứu về hiệu quả của chúng. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phụ nữ và / hoặc nhóm ung thư có thể giúp xác định liệu trình điều trị phù hợp với từng người.

 

BS NGUYỄN VĂN THỊNH

Nguồn Labtestonline

AACC ( American Association for Clinical Chemistry )

DANH MỤC BÀI VIẾT

XEM NHIỀU NHẤT

THỐNG KÊ TRUY CẬP

02524240
Hôm nay.........................
Hôm qua.........................
Trong tuần.........................
Tuần trước.........................
Trong tháng.....................
Tháng trước.......................
Tổng cộng
24
140
785
2522485
3955
5395
2524240

Đang có 6 khách và không thành viên đang online